Thứ Ba, 18 tháng 2, 2020

Thỏa thuận miệng có là chứng cứ hợp pháp?

Khi thỏa thuận miệng về thời kì trả, tôi đã bí hiểm ghi âm. Tôi xin hỏi thỏa thuận miệng có được pháp luật xác nhận là chứng cớ?

Luật sư đáp

Việc vay giữa những người bạn bè thân thiết thường chỉ qua bàn thảo bằng miệng chứ không mấy khi hai bên lập giấy má với nhau. Tuy nhiên theo quy theo quy định của Bộ luật Dân sự, giao tế dân sự, hợp đồng vay mượn tài sản giữa cá nhân chủ nghĩa với nhau không bắt buộc phải lập thành văn bản.

pháp luật cũng coi thỏa thuận miệng là một dạng giao dịch dân sự hợp đồng bởi điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 về hình thức giao dịch dân sự quy định: "giao tiếp dân sự được trình diễn.# bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể".

"hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định", theo điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bạn có giấy nộp tiền vào tài khoản của người bạn đó kèm theo thỏa thuận miệng về thời kì trả được thu thanh lại hoàn toàn có thể xác định đó là chứng cứ về việc hai bên hình thành một giao tiếp vay tiền hợp pháp.

Để đoạn băng ghi âm đó trở nên chứng cớ chứng minh, bạn cần xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản liên hệ đến việc thu âm thu hình. Dễ hiểu là bạn cung cấp được thiết bị ghi âm, file thu thanh gốc.

Để thuận lợi cho cơ quan tố tụng dễ tiếp cận file thu thanh, bạn nên ghi chép cụ thể nội dung đoạn đối thoại đó ra giấy nộp kèm file thu thanh gốc.

Khi khởi kiện buộc bên kia thực hành trách nhiệm trả nợ, bạn hãy cung cấp các tài liệu hệ trọng đến việc vay nợ như giấy chuyển tiền, file ghi âm cho cơ quan tố tụng. Các tài liệu này khi đủ điều kiện sẽ được xác định là chứng cứ trong vụ án dân sự như quy định tại điều Điều 93. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: "chứng cớ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp".

trạng sư Quách Thành Lực

Công ty Luật TNHH LSX

0 nhận xét:

Đăng nhận xét